HƯỚNG DẪN BỔ SUNG VITAMIN VÀ KHOẢNG CHẤT CHO PHỤ NỮ MANG THAI VÀ CHO CON BÚ

HƯỚNG DẪN BỔ SUNG VITAMIN VÀ KHOẢNG CHẤT CHO PHỤ NỮ MANG THAI VÀ CHO CON BÚ

Vitamin và khoáng chất là những yếu tố cần thiết, không thể thiếu đối với cơ thể. Nhu cầu vitamin và khoáng chất rất nhỏ, nhưng hầu hết không tự sản sinh trong cơ thể mà phải đưa từ bên ngoài vào nên được gọi là vi chất dinh dưỡng. Việc cung cấp các vi dưỡng chất này từ nguồn thực phẩm thường không đủ, vì thế phải bổ sung thêm bằng thuốc hoặc thực phẩm chức năng. Tùy nhiên, việc lạm dụng các chế phẩm hỗ trợ (hay còn gọi là ‘thuốc bổ”) có thể gây ra tình trang thừa vi chất dinh dưỡng dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe

Phụ nữ có thai là các đối tượng thường có nhu cầu bổ sung vi chất dinh dưỡng. Các thai phụ không nên tự ý mua các loại thuốc bổ về sử dụng, cần đi khám thai định kỳ để được bác sĩ thăm khám, tư vấn, hướng dẫn cụ thể và chỉ định sử dụng loại thuốc phù hợp với tình trạng sức khỏe của mẹ và từng giai đoạn phát triển của thai nhi, tránh được các tác dụng phụ xảy ra ngoài ý muốn.

Bổ sung vitamin và khoáng chất đúng cách trong thời gian mang thai giúp thai nhi phát triển khỏe mạnh, đồng thời mẹ tránh được một số nguy cơ gây bệnh.

Calci giúp cơ thể hình thành hệ xương và răng vững chắc, đảm bảo chức phận thần kinh và sự đông máu bình thường. Ngoài ra, nguồn canxi từ người mẹ còn có vai trò trong các quá trình chuyển hoá và tạo xương cho thai nhi, cũng như bài tiết qua sữa để cung cấp calci cho trẻ sau khi sinh. Phụ nữ mang thai và cho con bú mỗi ngày cần 1000 - 1300 mg calci.

Sữa là nguồn cung cấp calci tốt nhất, hàm lượng tương đối cao (100 - 120 mg/100ml sữa nước pha chuẩn), khả năng hấp thu tốt. Ngoài ra còn có các chế phẩm calci hữu cơ được bào chế thành viên nén/viên nang/dung dịch uống với liều lượng phù hợp với nhu cầu của các phụ nữ có thai.

Việc uống calci nên được tiến hành vào buổi sáng (sau bữa ăn sáng khoảng 1 giờ) hoặc buổi trưa, là những thời điểm cơ thể có cơ hội tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời (da tổng hợp vitamin D), giúp hấp thu canxi hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, khi bổ sung calci, cần sự vận động của cơ thể để lượng calcii đưa vào có thời gian kịp chuyển dịch vào khung xương. Việc dùng calci vào buổi chiều hoặc tối có thể làm calci tích tụ lại, hình thành calci oxalate dễ tăng nguy cơ gây sỏi thận, sỏi tiết niệu. Cần uống calci với nhiều nước và không nên bổ sung quá nhiều calci trong một lần mà nên chia làm nhiều lần trong ngày.

Sắt tham gia quá trình tạo máu của người mẹ và thai nhi, có nhiều trong thịt màu đỏ, trứng, trong đậu đỗ các loại, vừng lạc và các rau củ màu xanh đậm. Sắt do các thức ăn động vật cung cấp dễ hấp thu hơn nguồn sắt từ các thức ăn thực vật. Vitamin C và chất đạm trong khẩu phần làm tăng khả năng hấp thu sắt, ngược lại, tannin và phytat lại cản trở sự hấp thu sắt.

Do nhu cầu sắt của người phụ nữ tăng cao khi mang thai nên khẩu phần hàng ngày không thể đáp ứng được nhu cầu. Vì vậy, phụ nữ có thai cần được uống bổ sung viên sắt (30 – 60 mg sắt nguyên tố/ngày) hoặc viên đa vi chất theo qui định.

Tình trạng thiếu sắt dẫn đến thiếu máu ở người mẹ ảnh hưởng đến mức tăng cân của mẹ trong thời gian mang thai cũng như cân nặng của trẻ sơ sinh.

Sắt hấp thu tốt nhất khi dạ dày rỗng (lúc đói), vì vậy, nên uống viên sắt trước bữa ăn 30 phút. Vitamin C có tác dụng giúp cơ thể hấp thụ sắt tốt hơn, do vậy có thể uống nước cam để tăng hấp thu chất sắt vào cơ thể.

Cần tránh các thức uống gây kích thích như trà, cà phê, nước giải khát có gas vì chúng cản trở quá trình hấp thụ của sắt. Không uống sắt cùng với canxi vì các khoáng chất này cản trở sự hấp thụ lẫn nhau trong cơ thể, nên bổ sung vào những thời điểm khác nhau trong ngày.

Iod có nhu cầu trong cơ thể với một lượng rất nhỏ chỉ từ 15 đến 20 mg (WHO 1996), với vai trò là thành phần thiết yếu của các hormone tuyến giáp là thyroxine (T4) và TriIodothyronin (T3). Thiếu Iod ảnh hưởng rõ rệt đến tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là não bộ.

Bà mẹ ăn đủ Iod trong thời gian mang thai và cho con bú giúp giảm nguy cơ thiếu Iod cho thai nhi. Nhu cầu khuyến nghị Iod ở phụ nữ có thai là 220 mcg/ngày, bà mẹ cho con bú cần 250 mcg/ngày.

Iod có trong muối ăn hàng ngày, hoặc có thể được bào chế trong chế phẩm phối với hợp các loại vitamin và khoáng chất khác, không có dạng đơn chất. Phụ nữ có thai và cho con bú sử dụng các chế phẩm tổng hợp sẽ được bổ sung đầy đủ theo nhu cầu khuyến nghị hàng ngày.

Magie có tác dụng giải độc thai nghén. Magie có nhiều trong các loại rau xanh, chứa nhiều chất diệp lục, lúa mỳ, các loại quả cứng, các loại đậu (đỗ), thịt, hải sản cũng rất dồi dào magie. Khi theo thức ăn vào cơ thể, thường chỉ khoảng 30-40% lượng Magie được hấp thu và Vitamin D3 là chất có tác dụng giúp cơ thể hấp thu magie tốt hơn.

Vitamin A ngoài tác dụng bảo vệ mắt, tăng sức đề kháng, còn có tác dụng tạo xương cho trẻ giúp cho trẻ có chiều cao tối đa theo tiềm năng. Thiếu vitamin A sẽ làm tăng tỉ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng và tử vong, gây khô mắt, có thể dẫn đến mù lòa vĩnh viễn nếu không được điều trị.

Phụ nữ có thai cần đảm bảo đủ vitamin A trong suốt thời gian mang thai. Tuy nhiên, vitamin A liều cao trong thai kỳ có thể gây dị tật bẩm sinh cho thai nhi, vì thế bạn cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng vitamin A. Sau khi sinh, người mẹ cần đủ vitamin A để cung cấp vitamin A cho sữa nuôi con.

Sữa, gan, trứng là nguồn vitamin A từ động vật, dễ dàng hấp thu và dự trữ trong cơ thể. Các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau dền, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ, là những thức ăn có nhiều caroten cũng gọi là tiền vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.

Vitamin D giúp hấp thu và chuyển hóa các chất khoáng cần thiết như calci, phospho vào cơ thể, khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các hậu quả như trẻ còi xương ngay trong bụng mẹ hay trẻ sinh ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền.

Những phụ nữ có thai nên dành thời gian tắm nắng khoảng 20-30 phút/ngày hoặc bổ sung vitamin D với liều 15 mcg/ngày theo chỉ định của bác sĩ, sử dụng các thực phẩm giàu vitamin  D  như phomat, cá, trứng, sữa, hoặc các thực phẩm có tăng cường vitamin D.

Acid folic tham gia tạo máu và hình thành ống thần kinh. Thiếu acid folic ở người mẹ có thể dẫn đến thiếu máu, khuyết tật của ống thần kinh ở thai nhi. Nguồn cung cấp acid folic có nhiều trong các trái cây, rau xanh, trứng nhưng trong khẩu phần thường không đủ, vì vậy người mẹ cần được bổ sung 400- 1000 mcg/ngày khi mang thai.

Các vitamin tan trong dầu như vitamin A, D, E, K nên uống cùng bữa ăn vì các acid mật tiết ra để tiêu hóa thành phần lipid của thức ăn sẽ hòa tan.

Vitamin nhóm B là những vitamin có thể hòa tan trong nước, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể, đặc biệt là quá trình chuyển hóa carbohydrate thành đường và chuyển hóa chất béo. Nhóm này giúp tăng cường năng lượng, giảm stress. Khi uống vitamin nhóm này nên uống vào buổi sáng, trước bữa ăn là tốt nhất, giúp tăng cường năng lượng vào ngày mới.

Vitamin C nên được uống vào cùng bữa ăn sẽ hấp thu tốt nhất. Vitamin C chỉ tồn tại trong máu vài giờ nên không sử dụng toàn bộ liều uống vào một thời điểm mà nên chia nhỏ liều tương ứng với các bữa ăn trong ngày. Trường hợp người bị đau dạ dày thì nên uống vitamin C sau bữa ăn. Không nên uống vitamin C quá muộn vào buổi tối, vì vitamin C có tính kích thích cao, gây khó ngủ.

Sau bữa ăn sáng hoặc trưa là thời gian thích hợp để uống vitamin nhóm B, C và vitamin tổng hợp. Hàm lượng chất béo trong bữa ăn sẽ giúp các vitamin và vi chất dinh dưỡng tan trong chất béo được cơ thể hấp thu một cách tốt nhất. Vitamin tổng hợp cũng có thể giúp gia tăng năng lượng để bắt đầu một ngày mới.

Chia sẻ:

NỘI DUNG LIÊN QUAN

Lasik: 0949430015 Phaco: 0822949966