Cận thị là tật khúc xạ phổ biến hiện nay, đặc biệt là cận thị học đường, gây ảnh hưởng tới thị lực nhìn xa. Trong đó, cận thị cao thường liên quan tới sự kéo dài quá mức trục nhãn cầu, dẫn tới những tổn thương thoái hóa ở đáy mắt. Đây là 1 trong những nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm thị lực trên thế giới. Cận thị cao dẫn tới nhiều tổn thương đáy mắt khác nhau, trong đó hay gặp kể đến như: tổn thương gai thị và vùng hắc võng mạc quanh gai, thoái hóa võng mạc trung tâm và chu biên.
Tổn thương gai thị và vùng hắc võng mạc quanh gai
Teo võng mạc quanh gai (optic nerve crescent): đây là một trong những tổn thương hay gặp nhất trên cận thị cao, thường xảy ra do sự xoay theo trục đứng của củng mạc về phía mũi khi trục nhãn cầu bị kéo dài. Hay gặp phía thái dương, ngoài ra có thể gặp ở phía mũi, phía dưới hoặc hình tròn quanh gai thị.
Đĩa thị nghiêng (tilted optic disc): biểu hiện của sự phát triển bất thường của đĩa thị, nguyên nhân của đĩa thị nghiêng là do khi trục nhãn cầu dài ra, trục nhãn cầu cũng đồng thời bị xoắn vặn, trục nhãn cầu thường bị xoay về phía mũi, làm đĩa thị bị nghiêng.
Tổn thương võng mạc trung tâm
- Đáy mắt hình khảm (tessellated fundus): do hiện tượng giảm sản biểu mô sắc tố võng mạc cho phép nhìn thấy các mạch hắc mạc.
- Teo hắc võng mạc lan tỏa (diffuse choroiretinal atrophy) tổn thương màu vãng nhạt ở hậu cực, thường bắt đầu quanh đĩa thị, thường tăng theo tuổi và chiều dài trục nhãn cầu.
- Teo hắc võng mạc dạng mảng (patchy choroiretinal atrophy): tổn thương hình tròn hoặc oval, màu hơi xám trắng của củng mạc do mất biểu mô sắc tố võng mạc và lớp hắc mạc
- Teo hoàng điểm (macular atrophy): thoái hoá thường xảy ra sớm hơn 16 năm so với thoái hoá hoàng điểm tuổi già, xảy ra ở hai mắt và gặp ở phụ nữ nhiều hơn. Vết rạn dạng sơn mài (lacquer cracks): dạng những đường màu vàng phân nhánh và chéo nhau, hậu quả của rách màng Bruch nguyên phát, xuất huyết nhỏ có thể tiến triển trong các vết rạn. Các vết rạn này xuất hiện trên bệnh nhân cận thị cao là yếu tố dự báo của biến chứng mất thị lực đột ngột, vì tân mạch hắc mạc có thể tiến triển rất gần vị trị các tổn thương này.
- Tân mạch hắc mạc (choroidal neovasculazation – CNV): là một trong những biến chứng phổ biến dẫn đến giảm thị lực trung tâm. Các tân mạch này thường gây xuất tiết hoặc xuất huyết làm bệnh nhân nhìn hình biến dạng.
Tổn thương võng mạc chu biên
- Thoái hoá dạng bông tuyết (Snowflakes degeneration): tổn thương là những nốt màu trắng vàng, lấp lánh, trông như được rắc khắp võng mạc chu biên.
- Thoái hóa dạng trắng không ấn (white without pressure degeneration): tổn thương là một vùng xám mờ trên võng mạc mà không có sự ấn lõm củng mạc. Thường thấy dọc bờ sau của thoái hoá lưới, thoái hoá bọt sên và lớp ngoài của tách lớp võng mạc, không tiến triển thành vết rách.
- Thoái hoá dạng đá lát (paving stone degeneration): đó là những tổn thương nhỏ, hình tròn, bầu dục nằm rời rạc đơn độc hoặc thành nhóm, khi thành nhóm chúng thường kết hợp với nhau thành vệt tổn thương có bờ không đều, sắc tố thường thấy ở vùng rìa và có các mạch máu ở nền của tổn thương. Thoái hoá đá lát là tổn thương lành tính, không kèm theo rách võng mạc.
- Thoái hoá dạng lưới (lattice degeneration): là tổn thương quan trọng nhất ở võng mạc chu biên trên mắt cận thị, có nguy cơ bong võng mạc do sự hình thành những lỗ ở chỗ võng mạc thoái hóa.
- Thoái hoá dạng bọt sên (snail track degeneration): sở dĩ gọi là “bọt sên” vì hình ảnh tổn thương trên lâm sàng giống như vết bò của con sên. Đó là những dải tổn thương ranh giới rõ, nằm ở xích đạo hoặc trước xích đạo, trục dài song song với xích đạo, hay gặp ở vị trí thái dương trên.
- Rách võng mạc nguyên phát (Primary retinal break): Rách võng mạc được định nghĩa là sự không liên tục hay đứt đoạn của võng mạc thần kinh cảm thụ. Gọi là rách võng mạc nguyên phát vì các vết rách này xuất hiện tự nhiên, thường là ở những vùng thoái hoá võng mạc mà không có tiền sử chấn thương hay phẫu thuật trước đó ở mắt.
Nhận biết và tiên lượng nhằm phòng ngừa sớm các tổn thương đáy mắt do cận thị cao giúp góp phần giảm nguy cơ biến chứng gây giảm thị lực ở nhóm bệnh nhân này.